Nông thôn mới Thừa Thiên Huế

Thứ sáu, 29/03/2024

1981
+ aa -

Tin tức & Sự kiện

Cập nhật lúc : 14:07 29/10/2013
Sơ kết 5 năm thực hiện Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 27/3/2009 của Tỉnh uỷ về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Phần thứ nhất I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 1.Kết quả học tập quán triệt và tuyên truyền về Nghị quyết của các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp. a). Tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết: Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 16 (khoá XIII) đã ban hành Chương trình hành động số 22/CTr-TU ngày 27/3/2009 về thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TU của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. UBND tỉnh đã có Kế hoạch số 58/KH-UBND ngày 21/8/2009 về triển khai thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh uỷ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Thừa Thiên Huế. Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị quán triệt cho 350 cán bộ chủ chốt của Tỉnh.

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các cấp uỷ Đảng tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết và Chương trình hành động đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trên cơ sở đó Đảng bộ các Sở, Ban, ngành tổ chức Hội nghị quán triêt Nghị quyết của Trung ương, Chương trình hành động của Tỉnh uỷ và Kế hoạch triển khai thực hiện của UBND tỉnh đến cán bộ, đảng viên. Các Huyện uỷ tổ chức quán triệt cho cán bộ lãnh đạo cấp huyện và lãnh đạo cấp xã. Các chi, đảng bộ cơ sở đã triển khai quán triệt đến cán bộ, đảng viên và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Cấp xã còn giao nhiệm vụ triển khai thực hiện, phân công điạ bàn chỉ đạo cho các đồng chí trong Đảng uỷ để phổ biến chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện.
b). Công tác thông tin tuyên truyền: Ngoài việc tổ chức học tập, quán triệt đến cán bộ đảng viên, công tác tuyên truyền được đẩy mạnh và làm thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: chuyên mục “Nông nghiệp - nông thôn”, chuyên mục “Xây dựng nông thôn mới”, các phóng sự về điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua lao động sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, gương điển hình tiến tiến trong nông nghiệp, nông thôn được phát trên sóng Đài phát thanh truyền hình TRT của tỉnh hàng tuần, đài truyền hình khu vực VTV Huế. Các tổ chức đoàn thể chính trị phát động nhiều phong trào như: Mặt trận kêu gọi các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ủng hộ giúp đỡ  người nghèo thông qua phát động “Ngày vì người nghèo”; hỗ trợ xoá nhà tạm, phối hợp với các cơ quan chuyên môn xây dựng nhà tái định cư, các hộ dân ảnh hưởng thiên tai, góp phần chỉnh trang quy hoạch dân cư nông thôn. Hội phụ nữ phát động phong trào “5 không, 3 sạch”; Đoàn Thanh niên phát động phong trào “Tình nguyện xanh”; Hội cựu chiến binh tham gia vận động khu dân cư giữ gìn an ninh, trật tự, vận động người dân thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia cải tạo môi trường…nhiều mô hình sản suất giỏi, nhiều cách làm hay được động viên khen thưởng kịp thời và có sức lan tỏa rộng, 
c). Phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”, đã được UBND tỉnh tổ chức phát động, đồng thời   UBND các huyện, xã điểm và nhiều xã khác cũng tổ chức phát động và vận động các cấp, các ngành tham gia ký cam kết thực hiện. Phong trào có sức lan tỏa rộng, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố; tình làng nghĩa xóm được giữ gìn và phát huy; sự đồng thuận xã hội ngày càng tăng; mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, chính quyền ngày càng bền chặt. 
Thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới” các ngành, đoàn thể chính trị - xã hội đã hưởng ứng một cách tích cực. Mỗi ngành, mỗi đoàn thể xây dựng một Chương hành động cụ thể như: Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã chỉ đạo tổ chức “Ngày hội đoàn kết toàn dân” gắn với thi đua xây dựng nông thôn mới”; phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới. Tỉnh đoàn phát động “Tuổi trẻ Thừa Thiên Huế chung tay xây dựng nông thôn mới”. Hội Cựu chiến binh  tuyên truyền công tác an ninh nơi thôn xóm. Các địa phương đã chỉ đạo và triển khai lồng ghép các hoạt động ở nông thôn gắn với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. 
Xác định vai trò của người dân trong Chương trình xây dựng nông thôn mới là “chủ thể của Chương trình”; Chương trình là của dân, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng lợi”. Qua công tác tuyên truyền hầu hết các địa phương, người dân đã hưởng ứng tích cực bằng hành động cụ thể như: hiến đất, tham gia góp công, sức vào tu sửa, nâng cấp giao thông nông thôn; các công trình công cộng; chỉnh trang các cơ sở văn hóa, tổ chức các hoạt động lễ hội truyền thống, các hoạt động văn nghệ, thể thao ở thôn, bản. Nhiều hộ gia đình đầu tư xây dựng các công trình vệ sinh; tu sửa, xây dựng hàng rào, cổng ngõ theo đúng lộ giới quy hoạch. 
d). Công tác tổ chức học tập nghị quyết về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc, thấy rõ vai trò tầm quan trọng của Nghị quyết trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao nhận thức vai trò chủ thể của người dân, của cộng đồng trong xây dựng và phát triển nông thôn. Đã tạo sự chuyển biến tích cực trong dân cư nông thôn, vì vậy người dân tin tưởng, mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trông vật nuôi theo hướng sản xuất hang hóa. Các đoàn thể chính trị - xã hội đẩy mạnh hoạt động gắn nhiệm vụ của tổ chức mình với Chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nhiều tổ chức chính trị xã hội đã đảm nhận những công trình, phần việc ở thôn, bản để chỉ đạo cụ thể. Phong trào hiến đất, góp công, góp tiền trong xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội đã phát triển ở nhiều địa phương.
2.Tình hình triển khai nghị quyết.
a) Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương (khoá X)  Chương trình hành động số 22-CTr/TU. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình hành động số 58/KH-UBND ngày 21/8/2009 về triển khai thực hiện Chương trình hành động số 22-CTr/TU của Tỉnh uỷ. Các địa phương, Sở, Ban, Ngành cũng đã xây dựng Kế hoạch triển khai Nghị quyết Trung ương, Chương trình hành động của Tỉnh uỷ và của địa phương, ngành mình. Hàng năm các địa phương, các sở, ngành đã đưa nội dung phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn vào Nghị quyết phát triển kinh tế xã hội, nhiệm vụ của ngành, địa phương. 
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được UBND Tỉnh, các ngành và điạ phương chỉ đạo, triển khai khá tích cực. UBND tỉnh xác định Chương trình xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh xã hội là Chương trình trọng điểm của Tỉnh và hàng năm đã xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện. Các huyện, thị xã và các xã đã xây dựng Đề án và ra Nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo thực hiện. Qua 3 năm thực hiện Chương trình đã đạt nhiều kết quả khả quan. Nhận thức của cán bộ và người dân tham gia Chương trình nông thôn mới chuyển biến tích cực. Chương trình đã trở thành phong trào sâu rộng ở nhiều địa phương, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc, hệ thống cơ sở hạ tầng phục sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn từng bước đáp ứng được nhu cầu; đời sống, an sinh xã hội được cải thiện; bản sắc văn hoá được giữ gìn, phát huy; an ninh chính trị, an toàn xã hội ngày càng được cũng cố. 
Tuy nhiên, Chương trình được triển khai trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới suy giảm; kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn; nguồn lực để đầu tư phát triển còn hạn chế, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới của các cấp còn nhiều hạn chế, nên kết quả đạt được chưa cao. Cần tập trung nguồn lực và chỉ đạo quyết liệt, triển khai thì đến năm 2015 mới có thể đạt được mục tiêu của Trung ương.
b) Trong 5 năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Quốc hội ban hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn 2011 – 2020; Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/2010/NĐ-CP ngày 4/6/2010, quy định về chính sách doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.  Nghị định số 115/2008/NĐ-CP về miễn giảm thuỷ lợi phí, chính sách về trợ giá, trợ cước đối với đồng bào miền núi; chính hỗ trợ định cư, tái định cư; các chính sách hỗ trợ giảm nghèo, chính sách với các đối tượng hưởng chính sách... Đã được địa phương tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, kịp thời.
Tuy nhiên, còn nhiều Chương trình, đề án trên địa bàn tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí nguồn lực, hoặc bố trí chậm dẫn đến khó khăn trong triển khai, thực hiện như: Dự án công trình thủy lợi Tả Trạch; Đề án Phát triển kinh tế xã hội vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai; Chương trình xây dựng nông thôn mới, chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa đủ mạnh lại gặp thời kỳ suy giảm kinh tế nên doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn quá ít.
c) Ngoài các chính sách chung UBND tỉnh cũng ban hành một số chính sách đặc thù với địa phương như: Quyết định số 32/2012/QĐ-UB ngày 28/9/2012 ban hành quy định tạm thời cơ chế chính sách huy động nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng Chương trình nông thôn mới, Công văn số 2385/UBND-XDKH ngày 21/5/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh hướng dẫn tạm thời cơ chế đầu tư đặc thù thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới; và các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp như: Chính sách hỗ trợ sắp xếp, giải toả nò sáo trên đầm phá; Giao quyền mặt nước cho các hội nghề cá ở đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, chính sách phát triển đàn lợn giống tỷ lệ nạc cao; trợ giá giống lúa tuỳ theo từng vụ, hỗ trợ giống khi thiên tai, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua các mô hình, dự án khoa học công nghệ,  khuyến nông, lâm, ngư. Chính sách định cư dân thuỷ diện, hỗ trợ xoá nhà tạm cho dân thuỷ diện đầm phá định cư, dân các khu vực nguy cơ thiên tai tái định cư. Phân cấp quản lý các công trình xây dựng hạ tầng, các dự án của các Chương trình cho huyện, xã. Các chính sách đó đã góp phần tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.
II.KẾT QUẢ CHỦ YẾU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRÊN ĐỊA BÀN SAU 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
1.Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
a) Công tác quy hoạch ngành và quy hoạch chi tiết cho các loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu đã được chú trọng. Thời gian qua công tác quy hoạch cây trồng, vật nuôi phân vùng sản xuất được gắn kết quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Tuy nhiên, một số quy hoạch phát triển sản xuất chưa gắn kết với quy hoạch vùng, chất lượng quy hoạch chưa cao. Một số địa phương còn lúng túng lựa chọn cơ cấu cây con bố trí trong quy hoạch khi triển khai lúng túng, không phù hợp với thực tiễn. Một số quy hoạch chưa rà soát, điều chỉnh phù hợp với thực tế; quy hoạch vùng, quy hoạch ngành nên tính khả thi chưa cao. 
b) Trồng trọt: Diện tích gieo trồng lúa hàng năm khoảng 53.000 ha, trong đó diện tích giống lúa chất lượng cao khoảng 9.000 ha. Tỷ lệ sử dụng giống xác nhận hàng năm trên 90% (do một số giống đặc thù chưa có giống xác nhận, người dân sử dụng giống tự để lại đưa vào gieo cấy). Nhiều năm qua sản xuất luá luôn được mùa, năng suất tăng đều qua các năm, năm 2012 đạt 55,5 tạ/ha/vụ (tăng 1,5 tạ so với năm 2008). Năm 2012 sản lượng lúa đạt  29,4 vạn tấn (tăng 1,94 vạn tấn so với năm 2008). (đã vượt chỉ tiêu 24 -25 vạn tấn/năm vào năm 2015). Sản lượng lương thực có hạt năm 2011 đã vượt trên 30 vạn tấn (vượt chỉ tiêu 25-26 vạn tấn vào năm 2015). Diện tích các loại cây trồng khác như; lạc, ngô...ổn định diện tích và năng suất hàng năm đều tăng.
Đã hình thành các vùng chuyên canh sản xuất tập trung những cây trồng có tính hàng hoá như: cao su diện tích từ 8.261 ha năm 2008 tăng lên 9.163ha vào năm 2012. Diện tích sắn công nghiệp hàng năm đảm bảo 5.300 - 5.500 ha, đáp ứng nguyên liệu chế biến cho các nhà máy trên địa bàn. 
Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới được ứng dụng vào sản xuất như: đưa các giống lúa, giống lạc mới vào sản xuất, mở rộng diện tích sắn công nghiệp, xây dựng thành công nhiều mô hình với đối tượng cây trồng mới có giá trị cao.
c) Chăn nuôi: Ngành chăn nuôi trong những năm qua gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng dịch bệnh xẩy ra thường xuyên như: dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng, dịch tai xanh lợn .... Bên cạnh đó giá thức ăn ngày càng cao; thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra không ổn định, giá cả thất thường nên tổng đàn gia súc gia cầm hàng năm đều giảm. 
Đàn trâu bò: Tổng đàn trâu bò năm 2008 là 57.768. con (trong đó trâu 30.860 con), đến năm 2012 còn lại 44.882 con, đàn trâu giảm 7.334 con, đàn bò giảm 5.552 con. Nguyên nhân đàn trâu bò giảm do đồng cỏ ngày càng thu hẹp, cơ giới hóa khâu làm đất tăng cao nên nhu cầu chăn nuôi trâu bò để làm sức kéo không còn nhiều; vì vậy tổng đàn có xu hướng giảm dần hàng năm. 
Về đàn lợn: Năm 2008 có 266.806 con, đến năm 2012 còn lại 230.096 con (giảm 36.710 con). Tuy tổng đàn giảm, nhưng chất lượng đàn lợn đã được cải tạo đáng kể, tỷ lệ lợn siêu nạc, lợn nái lai F1 ngày càng tăng
Về gia cầm: Sản phẩm gia cầm có đầu ra khá ổn định, mạc khác tỉnh đã thực hiện khá tốt công tác phòng chống dịch bệnh, việc chăn nuôi an toàn sinh học ngày càng mở rộng theo hướng gia trại, hộ gia đình. Nhiều trang trại chăn nuôi phát triển mạnh nên tổng đàn tăng trưởng tốt. Năm 2008 tổng đàn có 1.631.500 con, năm 2012  có 2.122.980 con (tăng 491.480 con).
Trong những năm qua công tác giết mổ tập trung gia súc, gia cầm đã được quản lý chặt chẽ, góp phần quan trọng vào việc kiểm soát được dịch bệnh, đồng thời cung cấp các sản phẩm chăn nuôi đảm bảo yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng phục vụ khách du lịch và các lễ hội truyền thống hàng năm của tỉnh. 
Phát triển chăn nuôi năm 2012 mới đạt tỷ trọng 26,8 % giá trị sản xuất nông nghiệp, mục tiêu năm 2015 là 40% đang là một thách thức lớn.
d). Chương trình phát triển thuỷ sản: 
Về đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Năng lực đánh bắt thuỷ sản trên biển đã được ngư dân quan tâm đầu tư tàu cá đánh bắt xa bờ năm 2008 (công suất trên 90CV) năm 2012 có 235 tàu, tăng 129 tàu so với năm 2008. Có 25 tàu được trang bị hiện đại các hệ thống định vị vệ tinh hoạt động dài ngày trên biển. Hoạt động dịch vụ nghề cá trên biển đến nay đã có hơn 70 tàu, vừa đánh bắt kết hợp với dịch vụ nghề cá như: cung cấp xăng dầu, các nhu yếu phẩm khác và đồng thời thu mua sản phẩm của các tàu cá. Tàu đánh bắt gần bờ công suất nhỏ hiện có 5.457 chiếc, tăng 1.000 chiếc so với năm 2008. Sản lượng khai thác năm 2012 đạt 33.649 tấn, trong đó khai thác biển 29.460 tấn, khai thác sông đầm 4.189 tấn. Nhìn chung đội tàu đánh bắt xa bờ từng bước đã được hiện đại hóa vừa đánh bắt trên biển vừa góp phần giữ gìn chủ quyền biển đảo, đảm bảo an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, về số lượng tàu còn ít, nên sản lượng đánh bắt xa bờ còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, do năng lực tài chính của ngư dân khó khăn trong việc đóng mới tàu lớn.
Về nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2012 đạt 6.059 ha (tăng 586 ha so với năm 2008). Nuôi nước lợ mặn 4.020 ha (tăng 249 ha so với năm 2008). Trong đó: diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát theo hướng công nghiệp tăng mạnh và cho hiệu quả kinh tế cao, có diện tích hơn 313 ha, sản lượng đạt từ 4.500 đến 5.000 tấn/năm, bằng 40% sản lượng nuôi trồng của toàn tỉnh; diện tích nuôi nước lợ trên đầm phá năm 2012 là 3.707 ha gồm diện tích chuyên tôm sú 563 ha (giảm 1.317 ha so với 2008), nuôi xen ghép diện tích 3.144 ha (tăng 1.441 ha so với năm 2008). Hiện nay nuôi ở đầm phá theo hướng xen ghép là chính, tuy hiệu quả kinh tế không cao, (khoảng 35 triệu đến 50 triệu/ha), nhưng bền vững, ít dịch bệnh, ít gây ô nhiểm môi trường. Sản lượng nuôi năm 2012 đạt 13.683 tấn (tăng 4.432 tấn  so với năm 2008). 
Xây dựng hạ tầng nghề cá: Đã đầu tư nâng cấp, cải tạo cảng cá Thuận An, xây dựng mới cảng cá Vinh Hiền bằng nguồn vốn vay WB. Ngoài các khu neo đậu đậu tàu thuyền để phòng tránh thiên tai đã xây dựng như: Thuận An, Hải Dương, Phú Thuận, Vinh Hiền...đã xây dựng thêm khu neo đậu tàu thuyền Phú Hải đưa năng lực tiếp nhận hàng trăm tàu thuyền vào trú ẩn an toàn khi có bão. 
Về sản xuất giống: Các loài cá nước ngọt đã chủ động sản xuất giống với 2 cơ sở sản xuất giống và hàng trăm cơ sở ươm, kinh doanh giống, bảo đảm đáp ứng nhu cầu về giống thả nuôi. Giống nuôi mặn lợ hiện có 6 cơ sở sản xuất giống, chủ yếu là sản xuất giống tôm sú, nhưng cũng chỉ mới đáp ứng khoảng 10 % nhu cầu con giống thả nuôi toàn tỉnh, số giống còn lại phải nhập các tỉnh về, nên không chủ động về chất lượng, khó khăn trong kiểm tra, kiểm soát chất lượng. Hầu hết giống các loài cá nuôi mặn, lợ được khai thác trong tự nhiên nên không chủ động nguồn giống. 
Chương trình sắp xếp nò sáo trên vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai đã được thực hiện cơ bản hoàn thành, hình thành 10 khu bảo vệ thuỷ sản, chiếm 1,5% diện tích đầm phá và được bảo vệ nghiêm ngặt làm bãi đẻ cho các loài thuỷ sản. Hàng năm đã tổ chức thả hàng triệu con giống các loại vào tự nhiên nhằm tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, bảo đảm cho việc khai thác bền vững, nguồn lợi thuỷ sản. Môi trường sinh thái trên vùng đầm phá dần dần được phục hồi. 
g) Chương trình phát triển lâm nghiệp: Công tác quản lý bảo vệ rừng trong những năm qua đã được chú trọng và được xã hội hóa bằng nhiều hình thức như: giao khoán cho dân và cộng đồng dân cư để hưởng lợi. Diện tích giao khóan 63.102 ha có hưởng lợi lâm sản ngoài gỗ; (trong đó khoán quản lý bảo vệ rừng: 25.022 ha), theo Chương trình 5 triệu ha rừng. Sau đổi mới lâm trường quốc doanh, đã thành lập nhiều Ban quản lý bảo vệ rừng, tăng cả về số lượng Ban và biên chế. Lực lượng kiểm lâm không ngừng được củng cố và tăng cường cả về cơ sở vật chất, phương tiện và con người. Tình trạng chặt phá rừng trái phép, khai thác gỗ lậu giảm hẳn do nhờ làm tốt công tác thường xuyên tuần tra, truy quyét lâm tặc nên nạn phá rừng không còn.
Thời gian qua thực hiện dự án phát triển ngành lâm nghiệp – dự án WB3 trồng rừng kinh tế do Ngân hàng thế giới tài trợ, góp phần tăng diện tích trồng rừng mỗi năm của tỉnh khoảng 4.000 - 4.500 ha, nhưng diện tích trồng mới trên đất trống khoảng 500-600 ha còn lại trồng trên đất rừng khai thác trồng lại. Rừng sản xuất sau trồng được thâm canh tốt nên bình quân sau 5 đến 6 năm đã cho khai thác, giá trị thu hoạch khoảng 70 – 80 triệu đồng/ha. Rừng trồng kinh tế đã đem lại lợi ích đáng kể cho người dân, nhiều hộ giàu lên nhờ làm kinh tế rừng. Đồng thời giải quyết việc làm ổn định cho hàng trăm lao động nông thôn. Đến nay diện tích rừng trồng của toàn tỉnh đạt trên 94.000 ha, nâng độ che phủ rừng từ 56,21% năm 2009 lên 56,74% năm 2012.
Rừng tự nhiên đã hạn chế khai thác, mỗi năm khoảng 1.000m3, khai thác theo hướng bền vững, đóng cửa rừng những khu xung yếu, đầu nguồn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu từ rừng trồng đạt 62,8 triệu USD.
e) Phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn: Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch đúng hướng. Đã từng bước chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng; các dịch vụ xây dựng, sửa chữa cơ khí, điện tử, dịch vụ thương mại phát triển mạnh, nhiều nghề thủ công mới được du nhập, nhiều làng nghề truyền thống, nghề truyền thống được khôi phục, phát triển, góp phần tăng thu nhập, đổi mới bộ mặt nông thôn, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác. Năm 2013, UBND tỉnh đã có Quyết định công nhân 04 làng nghề và 04 làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, việc chuyển dịch vẫn còn chậm, chưa thực hiện được chủ trương “ly nông, bất ly hương”. Nhiều làng nghề truyền thống đã khôi phục nhưng hoạt động cầm chừng, do khó khăn thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhiều làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một.
2.Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn.
a) Nhiều năm qua tỉnh cũng đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, trước hết đầu tư về thuỷ lợi gồm công trình hồ chứa nước Tả Trạch sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2014; các công trình thuỷ lợi thuộc dự án Tây nam Hương Trà đã hoàn thành; dự án xây dựng hồ chứa nước Thuỷ Yên, Thuỷ Cam đang triển khai. Hệ thống tưới tiêu cho vùng cát các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, nâng cấp các hồ chứa, xây dựng các trạm bơm công suất lớn, kiên cố hóa 270 km kênh mương. Các công trình nêu trên, đã đưa vào vận hành, phát huy tác dụng, nâng diện tích tưới chủ động cho lúa từ 70% năm 2008 lên 94% năm 2012; diện tích tiêu chủ động cho lúa từ 70% năm 2008 lên 90% năm 2012.
b) Từ năm 2009 đến năm 2013 tổng nguồn vốn đầu tư trên địa bàn khu vực nông thôn là 3.264.259 triệu; tập trung chủ yếu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo tiêu chí nông thôn mới. Chương trình nông thôn mới bắt đầu triển khai từ năm 2010, tuy nguồn vốn của Chương trình Trung ương bố trí còn thấp; song địa phương đã lồng ghép được 803,632 tỷ đồng (từ năm 2010 đến năm 2013) thực hiện theo các tiêu chí nông thôn mới. Có 404 công trình thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất, dân sinh kinh tế - xã hội như: giao thông nông thôn, thủy lợi, trường học, y tế, văn hóa và hỗ trợ 1.792 nhà ở cho người nghèo…góp phần quan trọng phát triển kinh tế - văn hóa xã hội của địa phương.
Toàn tỉnh có 105 xã, trong đó quy hoạch định hướng phát triển đô thị 13 xã, 92 xã tham gia Chương trình xây dựng nông thôn mới. Đến nay số xã đạt từ 14 tiêu chí trở lên có 12 xã (tỷ lệ 13%); Số xã đạt từ 10 đến 13 tiêu chí có 55 xã (tỷ lệ 60%); Số xã đạt dưới 10 tiêu chí còn 25 xã (tỷ lệ 27%). Bình quân chung toàn tỉnh đạt 10,6 tiêu chí, (cả nước 6,41 tiêu chí). 
Hệ thống giao thông: Các công trình giao thông nông thôn được đầu tư kiên cố hóa, hoàn thành một số tuyến giao thông quan trọng phá thế chia cắt ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai như: Xây mới Cầu Tam Giang, tuyến Phong Điền - Điền Lộc, Thuỷ Phù - Vinh Thanh; nâng cấp Tỉnh lộ 4, Tỉnh lộ 10 C, D. Giao thông nông thôn đã được cải thiện đáng kể. Trong 4 năm từ 2009-2012 đã xây dựng mới 143,9 km và sửa chữa, nâng cấp 445,2 km đường giao thông nông thôn. Các tuyến đường trục xã, liên xã được trải nhựa hoặc bê tông chiếm 73,96%  (TC 100%). Đường trục liên thôn, xóm được cứng hoá 53,23% (TC 70% cứng hoá); Đường ngõ, xóm đã được bê tông hoá 42,39% (TC 70% cứng hoá, 100% sạch, không lầy lội trong mùa mưa). Đường trục chính nội đồng đã cứng hoá 21,67% (TC 70%). Tuy nhiên, các xã vùng đồng bằng, ven biển hệ thống giao thông nội đồng chưa phát triển, nên huy động nguồn lực thực hiện đang là một thách thức lớn của nhiều địa phương. 
Y tế: Hiện nay mới có 98 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về y tế (93,3%), còn lại 7 xã có trạm y tế, nhưng chưa đạt chuẩn do trang thiết bị còn thiếu, công tác duy tu bão dưỡng chưa được chú trọng, hệ thống cây xanh, vườn thuốc, hàng rào bảo vệ chưa có. (Có 84 xã đạt tiêu chí số 15-Y tế). Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức BHYT năm 2012 ở khu vực nông thôn đạt 77,5% 
 Văn hóa: Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng nếp sống văn minh được phổ biến sâu rộng dưới nhiều hình thức. Nhiều công trình văn hóa đã được xây dựng mới và nâng cấp cải tạo để khai thác sử dụng. Tuy nhiên, toàn tỉnh mới có 21 nhà văn hóa xã trên 105 xã; có khoảng 600 nhà văn hóa thôn, làng, bản trên 1.486 làng, thôn, bản (khoảng 40%). Nhà văn hóa xã, thôn, bản, làng đa số chưa đạt chuẩn về diện tích, quy mô, trang thiết bị, nhiều nhà văn hoá sử dụng không có hiệu quả, công trình xuống cấp. (Tiêu chuẩn Trung tâm văn hoá thể thao xã theo Thông tư số 12/2011/TT-BVHTTDL; nhà văn hoá thôn theo Thông tư số 06/2011/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) 
Giáo dục - Đào tạo: Đã duy trì và giữ vững chất lượng giáo dục phổ thông, tỷ lệ học sinh khá, giỏi, tỷ lệ tốt nghiệp THPT hàng năm, tỷ lệ đội ngũ giáo viên các cấp đạt chuẩn và trên chuẩn khá cao. Cơ sở vật chất trường học được cải thiện cơ bản, đã có 228/590 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 38,6% ; có 214 thư viện đạt chuẩn, 100% trường ở các cấp học được kết nối Internet. Số học sinh ở bậc tiểu học được học 2 buổi/ngày chiếm 69,4%, tăng 14,8 % so năm học 2009-2010.
Nước sạch, vệ sinh môi trường: Đến cuối năm 2012, có 92 % hộ dân khu vực nông thôn được sử dụng nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh.  
Bước đầu công tác quản lý, thu gom và xử lý chất thải ở khu vực nông thôn đã được chú trọng. Số được thu gom đưa đi xử lý tập trung còn ít (281 điểm), số còn lại chủ yếu tổ chức chôn lấp đơn giản hoặc tập kết ra các khu vực đất công cộng ngay tại địa phương. Môi trường khu vực nông thôn hiện nay nhiều nơi đang bị ô nhiễm do chất thải chăn nuôi, do nuôi trồng thuỷ sản, do chế biến nông lâm thuỷ sản...Chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong các khu, cụm công nghiệp - làng nghề chưa  xử lý được. 
Công trình hạ tầng khác: Hai năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, bằng nhiều nguồn vốn của nhiều chương trình, lồng ghép nhiều dự án đầu tư nên nhiều công trình thiết yếu như: trụ sở UBND các xã, các công trình hộ gia đình như nhà cữa, chuồng trại người dân tự giác chỉnh trang, nâng cấp, cải tạo phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
c) Nâng cao năng lực phòng chống thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu, bằng nguồn ngân sách của trung ương và địa phương trong 5 năm qua đã tập trung xây dựng nhiều công trình, dự án lớn nhằm góp phần nâng cao năng lực giảm nhẹ thiên tai như hồ Tả Trạch, công trình chống sạt lở, xâm thực bờ biển Hải Dương - Phú Thuận và nạo vét, nâng cấp cảng Thuận An.... Đầu tư xây dựng, nâng cấp, kiên cố hóa các đoạn bờ sông dễ sạt lở sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu, các bờ đê dễ bị ngập, dễ vở như đê Đông Tây Ô Lâu, đê Nho Lâm Nghĩa Lộ, đê sông Đại Giang.... Ngoài các công trình neo đậu tàu thuyền đã có  như Thuận An, Hải Dương, Phú Thuận, Vinh Hiền đã xây dựng mới khu tránh trú bão Phú Hải và 15 âu thuyền ở vùng đầm phá tạo điều kiện cho hàng nghìn tàu, thuyền ngư dân trú tránh bão an toàn.
Từ 2009-2012 đã xây dựng 63 dự án định cư dân thuỷ diện đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và tái định cư các vùng nguy cơ sạt lở bờ biển, bờ sông, núi  định cư bền vững cho 950 hộ dân thủy diện trên đầm phá  tập trung và hàng trăm hộ dân có nguy cơ sạt lở bờ sông, bờ biển, lũ ống, lũ quyét miền núi; góp phần giảm thiểu về thiệt hại kinh tế, con người mỗi khi có thiên tai xẩy ra. Đồng thời cùng thành phố Huế định cư cho hơn 1.000 hộ dân trên sông Hương, góp phần cải tạo môi trường cảnh quan đô thị Huế và các vùng phụ cận.
3.Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn
a) Thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn năm 2011 đạt 14,5 triệu đồng (Báo cáo Tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn, thuỷ sản) tăng 13,6% so năm 2009; nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì thu nhập thực tế của khu vực nông thôn tương đương với mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của tỉnh. Vốn tích lũy bình quân 1 hộ nông thôn năm 2011 đạt 15,2 triệu đồng nếu loại trừ yếu tố trượt giá, vốn tích lũy bình quân 1 hộ nông thôn đã tăng 52% so với năm 2006, bình quân mỗi năm tăng 8,7%, là mức tăng khá so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2006-2011. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn giảm khá nhanh, bình quân khoảng 3%/năm. Theo chuẩn mới, năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn là 7,95 %, so với năm 2010 giảm  3,21%. Tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm thường xuyên hiện nay là  81 % 
b) Đối với các vùng dân cư người dân bị thu hồi đất xây dựng các công trình kinh tế, xã hội, quốc phòng....Tỉnh đã có chủ trương: đối với đất ở cấp lại đất ở mới, đối với đất sản xuất lâm nghiệp cố gắng cấp đất mới để dân có điều kiện sản xuất. Hỗ trợ xây dựng nhà ở bằng hình thức xây nhà tình thương cho những hộ nghèo không có khả năng xây nhà. Xây dựng các dự án sinh kế nhằm hỗ trợ cho người dân về giống, phân bón, thức ăn và kỹ thụât trong trồng trọt, chăn nuôi. Hỗ trợ đào tạo nghề nhằm giải quyết việc làm phi nông nghiệp. Thực hiện mục tiêu nếu tái định cư thì nơi ở mới tốt hơn nơi ở cũ. Tuy nhiên, thực tế để giải quyết đất sản xuất cho dân ở một số tái định cư vẫn còn khó khăn như bản Phúc Lộc, khu định cư Bến Ván,  khu định cư Bình Thành vẫn chưa có đất cấp bù cho dân. Do thiếu đất sản xuất, nên nhiều lao động khó khăn trong cuộc sống, thu nhập không ổn định, do đó đời sống một bộ phận nhân dân vẫn còn rất khó khăn.
c) Công tác giảm nghèo nhanh và bền vững, hàng năm đã được chỉ đạo quyết liệt. Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp đều lập kế hoạch triển khai chi tiết. Các chính sách giảm nghèo được triển khai đồng bộ ở các cấp. Lồng ghép nguồn kinh phí của Chương trình MTQG giảm nghèo với các chương trình, dự án khác của Trung ương, địa phương, các tổ chức, cá nhân để  thực hiện mục tiêu đề ra. Như hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật tư, máy móc, công cụ sản xuất, tập huấn chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, đào tạo nghề để mở rộng, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, đời sống của người dân đã có những chuyển biến tích cực. 
Chương trình giảm nghèo được quan tâm chỉ đạo bằng nhiều biện pháp thiết thực như: ngoài việc nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền, các sở, ban, ngành; đồng thời kêu gọi vận động các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp cùng tham gia. Hàng năm đều có các hoạt động cụ thể, thiết thực hỗ trợ người nghèo. Tổ chức ngày “Vì người nghèo”; “quỹ tấm lòng vàng”, Hội phụ nữ có chương trình “chị em giúp nhau làm kinh tế”...Đồng thời đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ xã, thôn - bản, dạy nghề cho người nghèo....Hỗ trợ cho hộ nghèo vay vốn qua ngân hàng Chính sách xã hội để đầu tư sản xuất, giải quyết việc làm, sinh viên học tập, xây dựng các công trình vệ sinh.... 
Thực hiện chính sách chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, đã cấp phát thẻ BHYT cho người nghèo và đồng bào dân tộc miền núi. Chính sách miễn giảm học phí các cấp học, bậc học cho con em hộ nghèo, hộ chính sách, các xã nghèo miền núi, xã nghèo bãi ngang, hỗ trợ làm nhà, xóa nhà tạm...được triển khai đồng bộ.
Từ những hoạt động trên mà tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh qua các năm. Cụ thể theo chuẩn cũ: tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 21,17% (năm 2006) xuống còn 7% (năm 2010), bình quân giảm gần 3%/năm. Theo chuẩn mới năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo có 11,16  % đã giảm xuống còn 7,95 %  vào cuối năm 2012.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người nghèo cần trợ cấp xã hội như gia đình neo đơn già yếu, bệnh tật không có khả năng lao động…nhưng một số hộ còn ỷ lại, trông chờ hỗ trợ, chưa tích cực đầu tư sản xuất để vươn lên thoát nghèo.
d) Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn, đồng thời gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới đã triển khai rộng rãi và thường xuyên. Cấp tỉnh đã cũng cố Ban chỉ đạo và chỉ đạo các huyện, thị xã thành lập Ban chỉ đạo các cấp. Hướng dẫn tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét công nhận “Xã đạt chuẩn văn hoá nông thôn mới”, “Gia đình văn hoá”, “Làng văn hoá”.
Toàn tỉnh đã có 1.420/1.453 làng, thôn, bản, tổ dân phố đăng ký xây dựng đơn vị văn hóa (đạt 97,73%). Có 224.341/244.590 gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa (đạt 91,7%). Trong đó có 204.393 gia đình được UBND xã, phường, thị trấn công nhận đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 91,1% so với đăng ký. Toàn tỉnh hiện có 358 câu lạc bộ gia đình văn hóa được sinh hoạt thường xuyên. Các di tích lịch sử, văn hoá từng bước được đầu tư trùng tu, tôn tạo từ nhiều nguồn vốn. Các hoạt động văn hoá thể thao quần chúng, các lễ hội truyền thống của các địa phương được duy trì hoạt động và bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Các thiết chế văn hóa cơ sở được tiếp tục xây dựng và điều chỉnh bổ sung cho phù hợp. Tuy nhiên, thiết chế văn hoá còn thiếu, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu, nhiều công trình đã có nhưng xuống cấp nên  không phát huy hiệu quả.
4. Về đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn
a) Phát triên kinh tế trang trại, tổ hợp tác và hợp tác xã: 
Kinh tế trang trại phát triển gồm nhiều loại hình như: Trang trại trồng trọt, trang trại lâm nghiệp, trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi trồng thuỷ sản và trang trại tổng hợp. Đã tạo việc làm thường xuyên cho hàng trăm lao động khu vực nông thôn. Tuy phát triển chưa mạnh số lượng trang trại nhiều nhưng quy mô không lớn, theo tiêu chí đánh giá mới (Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), chỉ có 40 trang trại đạt tiêu chí. Số  trang trại còn lại có quy mô nhỏ, lao động ít, chưa phát triển sản xuất hàng hoá, hiệu quả kinh tế chưa cao. 
Kinh tế hợp tác từng bước được củng cố và phát triển để thực sự làm bà đở cho nông dân, hiện nay toàn tỉnh có 157 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 77 HTX đạt loại khá chiếm 49,1%; có 50 HTX đạt loại trung bình, chiếm 31,8%; còn lại 30 HTX xếp lọai yếu, chiếm 19,1%. Các hợp tác xã nông nghiệp là chỗ dựa vững chắc để phát triển kinh tế hộ gia đình. Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã phát huy vai trò của mình trong xây dựng nông thôn mới như: làm thuỷ lợi, giao thông nội đồng, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, xây dựng cánh đồng mẫu, dịch vụ thủy lợi tưới tiêu, dịch vụ làm đất, thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm .v.v. đáp ứng cho phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc cho người nông dân. 
b) Công tác đổi mới, sắp xếp các doanh nghiệp: Thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TƯ của Bộ Chính trị và các Nghị định số 170/2004/NĐ-CP, số 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, đến nay đã hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới mô hình tổ chức của các nông, lâm trường nằm trên địa bàn tỉnh. Cả 6 lâm trường đã hoàn thành việc sắp xếp đổi mới, một số lâm trường chuyển thành Ban quản lý rừng phòng hộ, một số lâm trường chuyển thành Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên. Đến nay đã củng cố, kiện toàn và thành lập mới 6 Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban quản lý khu bảo tồn Sao la, Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền. Sắp xếp lại 4 công ty TNHH nhà nước 1 thành viên Lâm nghiệp. Sau sắp xếp, đổi mới, quy mô các Ban quản lý rừng và Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên lâm nghiệp đã được điều chỉnh hợp lý trên cơ sở rà soát quy hoạch 3 loại rừng. Nhiều diện tích đất lâm nghiệp chuyển giao cho địa phương để giải quyết nhu cầu đất sản xuất cho dân. Các Ban quản lý rừng chuyên tập trung vào nhiệm vụ quản lý bảo vệ diện tích rừng phòng hộ. Hoạt động các Công ty sau đổi mới đã có hiệu quả theo đúng Luật doanh nghiệp.
c) Việc thu hút khuyến kích đầu tư tư nhân và nguồn vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế. Hiện nay có các dự án của Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam với số vốn đăng ký là 30 triệu USD (chủ yếu các dự án như: chăn nuôi heo, gia cầm; nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm; nuôi tôm công nghiệp trên cát vùng Điền Lộc, Điền Môn huyện Phong Điền và Nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh), 2 nhà máy chế biến gỗ dăm đã đầu tư từ trước, còn lại một số dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch là có quy mô khá, còn hầu hết là thành lập các doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực chế biến lâm sản, thuỷ sản và làm dịch vụ. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn của tỉnh thời gian qua, tuy chưa nhiều, số lượng dự án còn ít và các lĩnh vực đầu tư chưa phong phú đa dạng, nhưng đã thu hút được một lực lượng lao động nông thôn có việc làm thường xuyên; góp phần không nhỏ làm thay đổi chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn.
5. Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn.
a) Công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp được quan tâm. Từ năm 2009 đến 2013 đã triển khai 81 đề tài, dự án khoa học công nghệ cấp tỉnh với kinh phí 48,33 tỷ đồng, ngoài môt số hoat động nghiên cứu khoa học cơ bản, còn lại là các đề tài nghiên cứu khoa học ứng dụng và dự án chuyển giao công nghệ, bao trùm mọi hoạt động ở nông thôn, trong đó có những đề tài liên quan đến lĩnh vực sản xuất, chế biến nông, lâm, thuỷ sản góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Tuy nhiên, còn nhiều đề tài, dự án khoa học sau khi nghiên cứu đưa vào ứng dụng, triển khai trong thực tiễn đạt kết quả thấp, thậm chí có đề tài kết quả nghiên cứu không được ứng dụng vào thực tiễn.
b) Thực hiện chương trình CNN, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Nhiều hộ gia đình mạnh dạn đầu tư mua sắn trang thiết làm dịch vụ nông nghiệp, vì vậy máy móc tăng nhanh về số lượng, và chủng loại. Đến hết năm 2012 có 3.220 máy làm đất (tỷ lệ cơ giới hóa làm đất lúa đạt trên 90%). Có 182 máy gặt đập liên hợp và các máy gặt khác mà tỷ lệ thu hoạch lúa bằng máy đạt hơn 70% diện tích. Ngoài ra có hàng trăm công cụ, máy móc khác được đầu tư thay thế lao động thủ công trong chế biến nông, lâm, thuỷ, sản, ngành nghề nông thôn. Cơ giới hoá trong nông nghiệp, nông thôn góp phần giải phóng sức lao động thủ công, rút ngắn thời gian thu hoạch, giảm thiểu được tổn thất sau thu hoạch, giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận trên một đơn vị diện tích. 
c) Công tác đào tạo nghề đã chú trọng cả về số lượng và chất lượng, UBND tỉnh đã phê duyệt “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2011-2020”, theo Chỉ thị số 35-CT/TU ngày 19/5/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác đào tạo nghề nông thôn. Từ năm 2009-2012 đã thành lập mới 12 cơ sở dạy nghề, đưa tổng số cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh lên 47 cơ sở. Với kinh phí 60 tỷ đồng đã tập trung cho tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị cho các cơ sở dạy nghề công lập, hỗ trợ lao động nông thôn học nghề và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ xã. Số lượng học viên đào tạo nghề nông thôn 3 năm 2010-2012 là 13.342 lao động góp phần đưa tỷ lệ lao động ở nông thôn được đào tạo từ 34% năm 2008 lên 48% vào cuối năm 2012. Đào tạo nghề cũng đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn từ nông nghiệp sang các nghề khác. Tỷ trọng lao động nông nghiệp tỉnh ta từ 38,3% năm 2008 giảm xuống còn 32,13% năm 2012.
Tuy nhiên, hệ thống đào tạo nghề còn thiếu cả về trang bị và giáo viên cơ hữu. Chất lượng đào tạo còn yếu, số lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu, đào tạo nghề nông thôn chưa gắn với giải quyết việc làm nên một bộ phận lao động được đào tạo nghề nhưng không làm việc theo nghề được đào tạo.
d) UBND Tỉnh đã phê duyệt đề án tăng cường năng lực quản lý nhà nước chuyên ngành thú y, đang hoàn chỉnh đề án nâng cao năn